Từ nguyên Áo trực lĩnh

"Trực" 直 là thẳng. "Lĩnh" 領 các từ điển cổ chú dịch là "cảnh" (頸) hoặc "hạng" (項), đều có nghĩa là phần cổ, trường hợp này hiểu là cổ áo. Trong các sách cổ Việt Nam, "lĩnh" được dịch Nôm là "tràng"(長), ví dụ sách Tam thiên tự: Y - áo: 衣-袄; Lĩnh-tràng 領-長.[1]

Thái phó Nguyễn Quý Đức 阮貴德 mặc Bù Long

Danh từ "Trực lĩnh" xuất hiện rất sớm, từ điển Thích Danh thời Đông Hán[2] định nghĩa: “Trực lĩnh, lĩnh tà trực nhi giao hạ, diệc như trượng phu phục bào phương dã". Nguyên văn: "直領,領邪直而交下,亦如丈夫服袍方也". Sách Ngàn năm áo mũ dẫn vế đầu và dịch là: “Trực lĩnh, cổ áo chếch thẳng xuống, giao nhau ở phía dưới".[3] Vế sau so sánh với vạt cả vuông trên áo đàn ông thời nhà Hán. Chữ "bào" (袍) nguyên là "bão" (袌), nghĩa là vạt cả.  Từ "vạt cả" thường để chỉ cả tấm lớn phía ngoài của thân trước áo (gồm hai thân) hoặc để chỉ riêng chỉ thân thứ 5 ghép thêm vào tạo thành vạt ngoài. Vạt cả là bộ phận quan trọng giúp phân biệt các dạng trực lĩnh. Ba dạng trực lĩnh thường gặp là "Bù Long" (Hán tự đối khâm - 對襟, 4 thân và không có vạt cả), "Tràng Vạt" (Hán tự giao lĩnh - 交領, 5 hoặc 6 thân và có vạt cả) và áo cổ thìa (5 hoặc 6 thân, có vạt cả nhưng buộc gút giữa). Khang Hy tự điển chú thích "bão" là "y chi đại khâm"[4], nghĩa là vạt cả của áo. Thuyết văn giải tự chú có phần mục từ "cư" như sau[5]:

"(裾)衣袌也。袌各本作袍。今依韵會正。上文云袌、褱也。褱物謂之袌。因之衣前䘳謂之袌。方言。襌衣有袌者。趙魏之間謂之袏衣。郭云。前施袌囊也。房報切。按前施袌囊卽謂右外䘳。方言。無袌者謂之裎衣。則今之對䘳衣。無右外䘳者也。褻衣無袌。禮服必有袌。上文之袥、衸謂無袌者。唐、宋人所謂衩衣也。公羊傳曰。反袂拭面。涕沾袍。此袍當作袌。何注曰。衣前襟也。釋器。衣皆謂之襟。衱謂之裾。衱同袷。謂交領。袌連於交領。故曰衱謂之裾。"

Phiên âm:

"Cư, y bão dã. Bão các bản tác bào, kim y vận hội chính. Thượng Văn vân: bão, hoài dã, hoài vật vị chi bão. Nhân chi y tiền khâm vị chi bão. Phương Ngôn, đơn y hữu bão giả, Triệu Ngụy chi gian vị chi tá y. Quách vân: tiền thi bão nang dã, phòng báo thiết. Án tiền thi bão nang tức vị hữu ngoại khâm. Phương Ngôn: vô bão giả vị chi trình y, tắc kim chi đối khâm y, vô hữu ngoại khâm giả dã. Tiết y vô bão, lễ phục tất hữu bão. Thượng Văn chi tá, giới vị vô bão giả. Đường, Tống nhân sở vị xái y dã. Công Dương truyện viết: phản mệ thức diện, thế triêm bào, thử bào đương tác bão. Hà chú viết: y tiền khâm dã. Thích Khí: y giai vị chi khâm, cực vị chi cư. Cực đồng giáp/hợp, vị giao lĩnh, bão liên vu giao lĩnh, cố viết cực vị chi cư 。"

Tạm dịch:

"Cư là "bão" áo. "Bão"(袌) các bản viết "bào" (袍), nay theo vần hội chính. Thượng Văn rằng: "bão", là bọc gói vật. Nhân đó mà vạt trước của áo gọi là "bão". Phương Ngôn: "đơn y" có "bão", thời Triệu Ngụy gọi là "tá y". Quách rằng: "bão" là "tiền thi bão nang". Xét thì thấy "tiền thi bão nang" tức là vạt phủ ngoài bên phải. Phương Ngôn: không có "bão" gọi là "trình y", tức "đối khâm y" ngày nay, không có vạt phủ ngoài bên phải. Áo lót trong không có "bão", lễ phục ắt có "bão". Trong Thượng Văn, hai chữ "tá", "giới" bình nghĩa rằng không có "bão". Người Đường, Tống gọi là "xái y". Công Dương Truyện rằng: biệt nhau lau mặt, nước mắt đẫm "bào", "bào" này đáng lẽ viết là "bão". Hà chú rằng: là vạt trước áo. Thích Khí viết: áo đều gọi là vạt, "cực" còn gọi là "cư". "Cực" với "giáp/hợp" như nhau, là cổ chéo, "bão" liền nối với cổ chéo nên "cực" cũng gọi là "cư".

Dựa theo miêu tả của các tài liệu xưa, những áo ghép thêm vạt cả mới được coi là Tràng Vạt, không ghép thêm vạt cả thì không thể là Tràng Vạt mà gọi là đối khâm, tức áo Bù Long hoặc loại áo cổ thìa. Ngoài việc phải ghép thêm vạt ra thì còn một điều kiện nữa để được coi là Tràng Vạt đó là thân ghép thêm phải đóng góp vào việc tạo hình cho tràng áo, nếu vạt ghép thêm không tạo được tràng xiên đặc trưng (tràng xiên, đồng thời buộc gút nách, không có gút nách không tính là "đại khâm"[6] tràng xiên, không có vạt cả tràng xiên không phải Tràng Vạt) thì chưa thể coi là Tràng Vạt.

Từ điển Việt cổ của Nguyễn Ngọc San giải nghĩa: Hộ Lĩnh (护領 - 護領) buộc che ngoài tràng (Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa). Hộ lĩnh là dải vải may đè lên tràng, áp vào mép vạt, cũng gọi là nẹp cổ, có tác dụng gia cố cho tràng áo. Thông thường tràng và hộ lĩnh may cùng màu với áo, một số trường hợp hộ lĩnh làm khác màu với áo.

Bổ long hoặc Bù long (補龍) là loại trực lĩnh 4 thân mặc chéo vạt, ôm ngực và bụng người mặc. "Bù/bổ" nghĩa là góp vào, dồn vào; "long" là nói tắt của "nương long", từ cổ nghĩa là ngực hoặc bụng[7], trong trường hợp này hiểu là ngực. Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa: "Hung ức giữa ngực, hung đường giữa nương"[8]